Tín hiệu tích cực từ những chương trình, dự án đưa nước sạch tới vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi

|

Tín hiệu tích cực từ những chương trình, dự án đưa nước sạch tới vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi

Vâ;́n đề thiếu nước sinh hoạt đối với người dâ;n vùng nông thôn, đặc biệt là vùng đồng bào dâ;n tộc thiểu số, miền núi, vùng khó khăn khan hiếm nguồn nước luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâ;m. Với nỗ lực giải bài toán thiếu nước sạch, nhiều địa phương trong cả nước đã triển khai, thực hiện thành công các chương trình, dự án đâ;̀u tư xâ;y dựng, hô?? trợ, tìm kiếm nguồn nước… nhằm đảm bảo đủ nước sinh hoạt cho mọi người dâ;n, từng bước nâ;ng cao điều kiện sinh hoạt, đời sống dâ;n cư.
 
Theo thống kê, cả nước vẫn còn hơn 31 triệu người dâ;n nông thôn chưa được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Tại một số nơi ở các vùng sâ;u, vùng xa, vùng đồng bào dâ;n tộc thiểu số (DTTS), miền núi, vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, tỷ lệ người dâ;n sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước.

Kết quả từ cuộc Điều tra thực trạng kinh tế-xã hội 53 dâ;n tộc thiểu số năm 2019 của Tổng cục Thống kê cho thâ;́y, tình trạng tiếp câ;̣n nguồn nước sạch, hợp vệ sinh của đồng bào DTTS đã có những cải thiện đáng kể, song vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Trong đó, tỷ lệ hộ DTTS sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh (bao gồm: Nước máy, nước mua (xi téc, bình), nước mưa, nước giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ) là 88,6%, tăng 15,3 điểm phần trăm so với năm 2015. Tuy nhiên, vẫn còn một số dâ;n tộc có tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh thấp (dưới 50%) bao gồm: Bru Vâ;n Kiều (48,5%), Si La (48,3%), Cống (43,5%) và Chứt (39,2%). Các kết quả thống kê cũng cho thâ;́y, có sự chênh lệch về tỷ lệ hộ DTTS được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn; tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 97,7%, cao hơn 10,5 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn (87,2%).
Nước sạch đến với người dâ;n vùng đồng bào DTTS
 
Trước thực tế việc tiếp câ;̣n nguồn nước sạch hợp vệ sinh còn hạn chế, nhâ;́t là đối với vùng đồng bào DTTS, những năm gâ;̀n đâ;y Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chương trình, dự án nước sạch nhằm nâ;ng cao đời sống sinh hoạt, đặc biệt là khắc phục tình trạng thiếu nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS, miền núi, cụ thể như: Các Chương trình MTQG, Chương trình giảm nghèo 135, 30a, Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Các dự án thuộc Chương trình Điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất để cung cấp nước sinh hoạt ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước…

Thực hiện các chương trình, dự án trên theo chủ trương của Đảng và các chính sách của Nhà nước, hiện các địa phương trong cả nước đã và đang triển khai đồng bộ với mục tiêu đưa nước sạch đến với người dâ;n vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS và miền núi, bước đâ;̀u đã thu được những kết quả tích cực. Ngày 08/11/2019 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1553/QĐ-TTg điều chỉnh Chương trình điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất để cung cấp nước sinh hoạt ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước. Theo đó, Chương trình thực hiện tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước trên địa bàn 41 tỉnh với số vùng được điều tra, đánh giá là 325 vùng.  Trong đó, khu vực Bắc Bộ có 147 vùng được đánh giá tại 15 tỉnh; khu vực Bắc Trung Bộ có 32 vùng được điều tra, đánh giá tại 5 tỉnh; khu vực Nam Trung Bộ có 48 vùng được điều tra, đánh giá ở 7 tỉnh; 4 tỉnh khu vực Tâ;y Nguyên có 45 vùng được đánh giá, khu vực Nam Bộ có 53 vùng được điều tra đánh giá tại 10 tỉnh. Những nơi được điều tra đánh giá là các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước chủ yếu là các xã vùng DTTS, miền núi, tỷ lệ đói nghèo cao, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhâ;n dâ;n còn nhiều thiếu thốn và yếu kém.

Báo cáo kết quả bước đâ;̀u thực hiện Dự án “Ðiều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước”, giai đoạn I (2015-2020) được thực hiện tại 197 điểm vùng núi cao, khan hiếm nước trên địa bàn 37 tỉnh khó khăn, đã hoàn thành khối lượng và mục tiêu đặt ra. Ðến nay, công tác tìm kiếm nguồn nước phục vụ cung cấp nước sạch đã đem lại hiệu quả thiết thực. Ðã có hơn 1 triệu người dâ;n trên địa bàn 37 tỉnh được sử dụng nước sạch với tiêu chuẩn 100 lít/người/ngày, góp phần nâ;ng cao đời sống vật chất cho người dâ;n ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước. Nhóm nghiên cứu dự án đã lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tại 197 vùng có triển vọng để thi công các công trình khai thác tài nguyên nước; thi công 454 công trình, xâ;y dựng 189 trạm cấp nước sinh hoạt tập trung; lưu lượng khai thác công trình đạt khoảng 104.917m3/ngày.

Bên cạnh đó, các địa phương trong cả nước cũng đang triển khai đồng bộ các chương trình, dự án khác nhằm xâ;y dựng, hô?? trợ các công trình nước sinh hoạt tâ;̣p trung, giải quyết tình trạng thiếu nước sạch cho người dâ;n vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS, miền núi. Trong đó, tại tỉnh Bắc Kạn, để giúp đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Pác Nặm giải quyết tình trạng thiếu nước sạch trong sinh hoạt. Trong năm 2022, 5 xã Nhạn Môn, Cổ Linh, Nghiên Loan, Cao Tâ;n và Xuâ;n La của huyện đã được hỗ trợ nước sinh hoạt phâ;n tán theo chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt cho các hộ nghèo vùng đồng bào DTTS. Với nguồn kinh phí cấp cho các xã triển khai chương trình là 186 triệu đồng được trích từ nguồn sự nghiệp Chương trình MTQG phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi năm 2022. Với các hạng mục hô?? trợ để mua téc, lu chứa nước; vòi dẫn nước; xâ;y bể; đào giếng và tạo nguồn nước sinh hoạt khác.

Giai đoạn 2023-2025, theo Kế hoạch đầu tư xâ;y dựng Dự án cấp nước sinh hoạt tập trung vùng đồng bào DTTS và miền núi tỉnh Bắc Kạn, sẽ có 24 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung được đầu tư xâ;y dựng trên địa bàn các xã thuộc các huyện Na Rì; Ba Bể; Chợ Mới; Chợ Đồn... với tổng mức đầu tư của Dự án trên 59 tỷ đồng từ nguồn vốn Chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025. Việc đầu tư xâ;y dựng các công trình này nhằm cung cấp nước sinh hoạt tập trung cho các hộ DTTS, hộ nghèo và gia đình chịu thiệt hại bởi thiên tai, bão lũ, sinh sống ở vùng khó khăn chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh; qua đó giúp người dâ;n yên tâ;m đầu tư phát triển sản xuất và nâ;ng cao mức sống, thúc đẩy sự phát triển về chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương và khu vực.

Tại Tuyên Quang, theo thống kê hiện toàn tỉnh có 383 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, trong đó có 227 công trình hoạt động. Các công trình khai thác nước hoạt động bền vững, với công suất khai thác hàng chục nghìn m3 nước/ngày/đêm, đáp ứng cho trên 95% số hộ nông thôn và vùng đồng bào DTTS của tỉnh được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Đâ;y là thành quả của việc triển khai các dự án, chương trình về câ;́p nước sạch cho nông thôn, đồng bào DTTS thời gian qua của tỉnh.

Giai đoạn 2021-2025, nhằm nâ;ng cao chất lượng nguồn nước sinh hoạt, cải thiện điều kiện sống của đồng bào DTTS, Tuyên Quang đặt kế hoạch hỗ trợ xâ;y dựng công trình nước sinh hoạt phâ;n tán cho 10.360 hộ hưởng lợi; xâ;y dựng 20 công trình nước sinh hoạt tập trung cho các cụm dâ;n cư, cơ quan, trường học ở các xã có đông người dâ;n là đồng bào DTTS. Đầu tư xâ;y mới các công trình nước sạch, tiếp tục mở rộng đấu nối, tạo nguồn, dẫn nguồn nước ổn định phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của người dâ;n.


Huyện Mường Tè (tỉnh Lai Châ;u) là một trong những huyện vùng cao của tỉnh có nhiều đồng bào DTTS sinh sống. Trước đâ;y, người dâ;n nơi đâ;y thường phải sống trong cảnh thiếu nước sinh hoạt, song từ khi có các Chương trình MTQG, Chương trình 30a, 135, Nông thôn mới… của Đảng, Nhà nước với các dự án về hô?? trợ, xâ;y dựng công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh, đồng bào DTTS của huyện đã có nước sạch, hợp vệ sinh sử dụng trong sinh hoạt mỗi ngày, an ninh nguồn nước được đảm bảo. Tính đến nay, UBND huyện Mường Tè đã đầu tư xâ;y dựng 114 công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh tới các xã, bản trên địa bàn theo nguồn vốn được hô?? trợ... Nguồn nước được lấy từ các khe, mó nước, đầu nguồn, mạch nước ngầm chảy qua ống dẫn thẳng về các bể. Mỗi bể có thể tích chứa 5 - 20m3 nước tùy theo nguồn nước dẫn về và nhu cầu sử dụng của người dâ;n. Các công trình này đều được xâ;y trong khu dâ;n cư, xa nơi có nguy cơ sạt lở để đảm bảo công trình phát huy hiệu quả. Nhờ vậy, tỷ lệ số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn huyện từ năm 2016-2022 đã tăng 9.968 hộ/10.389 hộ, đạt 95,9%.

Tại tỉnh Hòa Bình, theo thống kê, tính đến cuối năm 2021, toàn tỉnh có 95,38% người dâ;n nông thôn vùng DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, (tuy nhiên mới có 50,2% hộ sử dụng nước đáp ứng quy chuẩn; trong đó, tỷ lệ người/hộ nông thôn sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung đạt trên 16%; tỷ lệ người/hộ nông thôn sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước quy mô hộ gia đình đạt 34%). Giai đoạn 2021-2025, với quyết tâ;m tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, còn hạn chế từng bước cải thiện và nâ;ng cao điều kiện sống cho người dâ;n, đặc biệt là nâ;ng cao tỷ lệ người dâ;n vùng đồng bào DTTS và miền núi tiếp câ;̣n nguồn nước sạch, tỉnh Hòa Bình dự kiến sẽ triển khai hỗ trợ 11.408 hộ về nước sinh hoạt phâ;n tán và 120 công trình nước sinh hoạt tập trung cho khoảng 4.300 hộ hưởng lợi. Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn theo hướng đồng bộ, áp dụng công nghệ mới, quản lý, vận hành thông minh, đảm bảo bền vững. Đầu tư hệ thống cấp nước sạch quy mô lớn đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng nước và phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống dâ;n cư. Những vùng dâ;n cư tập trung, khó khăn nguồn nước cần đầu tư những công trình kết nối, tạo nguồn, dẫn nguồn ổn định…

Tại tỉnh Bình Phước, hiện có 41 DTTS với trên 203,5 nghìn người (chiếm 19,67%), sinh sống trên địa bàn 111 xã, phường, thị trấn của 11 huyện, thị xã, thành phố. Toàn tỉnh có 58 xã thuộc vùng DTTS và miền núi, trong đó có 05 xã và 25 thôn thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Đầu năm 2023, toàn tỉnh có 2.830 hộ nghèo DTTS, chiếm 58,09% trên tổng số hộ nghèo của tỉnh. Để nâ;ng cao đời sống kinh tế-xã hội và giải quyết tình trạng thiếu nước sạch cho người dâ;n đồng bào DTTS trên địa bàn, tỉnh Bình Phước đang nỗ lực triển khai Dự án cấp nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào DTTS thuộc Chương trình MTQG phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025. Theo đó, ngày 10/5/2023, tại xã Thanh An (huyện Hớn Quản) đã tổ chức Lễ khởi công xâ;y dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào DTTS. Đâ;y là hoạt động triển khai Dự án 1 thuộc Chương trình MTQG phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS và miền núi. 

Hai công trình câ;́p nước sạch được triển khai tại 02 ấp Địa Hạt - Sóc Dầm và ấp Phùm Lu-Tư Ly. Các â;́p này có đông đồng bào DTTS sinh sống và là nơi thường xuyên thiếu nước sạch, nước sinh hoạt vào mùa khô. Kinh phí xâ;y dựng mỗi công trình xâ;́p xỉ 3 tỷ đồng, được trích từ nguồn vốn thuộc Chương trình MTQG. Công trình dự kiến hoàn thành và đưa vào hoạt động vào cuối năm 2023, dự kiến sẽ cung cấp nguồn nước sạch cho khoảng 160 hộ dâ;n là đồng bào DTTS. Công trình đưa vào hoạt động sẽ giúp cho các hộ dâ;n thuộc 2 ấp trên có điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp, đa dạng hóa sinh kế, tạo việc làm, cải tiến mô hình sản xuất, cải thiện đời sống, tăng thu nhập đồng thời tạo động lực cho các hộ dâ;n được thụ hưởng phấn khởi vươn lên thoát nghèo…

Có thể thâ;́y, việc triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, dự án về hô?? trợ, đâ;̀u tư xâ;y dựng công trình nước sạch cho vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS ở các địa phương trong cả nước đã mang lại những kết quả tích cực, thể hiện sự quyết tâ;m vào cuộc của Đảng, Chính phủ với mong muốn tất cả người dâ;n, đặc biệt là những người dâ;n vùng DTTS, miền núi còn khó khăn, vùng khan hiếm nước sẽ có nước sạch trong đời sống sinh hoạt. Các công trình nước sạch được xâ;y dựng không những mang đến nguồn nước đảm bảo vệ sinh, phục vụ sinh hoạt hàng ngày mà còn nâ;ng cao chất lượng đời sống, bảo vệ sức khỏe cho đồng bào DTTS, đặc biệt là ở các xã vùng sâ;u, vùng xa. 

Ngoài ra, một số công trình nước sạch hiện đang được triển khai xâ;y dựng tại vùng đồng bào DTTS, miền núi, vùng khan hiếm nước còn giúp ổn định cả về trữ lượng và chất lượng nước, đồng thời từng bước thay thế nguồn nước mặt không ổn định, chưa qua xử lý như trước đâ;y, từng bước giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu nước sinh hoạt của người dâ;n vào mùa khô, đặc biệt góp phần nâ;ng cao đời sống, sức khỏe của nhâ;n dâ;n, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực, ổn định dâ;n cư, giữ vững an ninh biên giới của tổ quốc; góp phâ;̀n hoàn thành mục tiêu cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của quốc gia.

Tuy nhiên, để các công trình nước sạch hoạt động hiệu quả, bền vững, chính quyền các địa phương cần tích cực, chủ động tham gia vào công tác vận hành, quản lý, kiểm tra các công trình cấp nước tập trung đang được triển khai xâ;y dựng, các công trình đã đưa vào hoạt động trên địa bàn; cùng với đó các đối tượng hưởng lợi câ;̀n nêu cao ý thức, trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ nguồn nước sạch, an toàn cho chính bản thâ;n, gia đình và cộng đồng./.

Đoàn Châ;u
Trang web giải trí của nhà vô địch Muay Thái